Sôi động điện mặt trời áp mái gia đình

Việc huy động nguồn điện năng lượng tái tạo được kỳ vọng sẽ sôi động hơn khi quyết định 13 về cơ chế khuyến khích phát triển điện mặt trời vừa được Chính phủ ban hành và có hiệu lực ngày 22-5.

Điều này sẽ càng có ý nghĩa với người dân khi khả năng thiếu điện trong thời gian tới đang hiển hiện. Ngoài việc tạo ra nguồn điện sử dụng, người dân còn có thể bán điện cho Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN).

Vừa có điện dùng vừa có điện bán

Là một trong những hộ dân lắp hệ thống điện mặt trời áp mái, gia đình ông Nguyễn Đắc Thọ (đường Lê Văn Sỹ, Q.3, TP.HCM) giờ đây không phải trả tiền điện mà mỗi tháng còn nhận đều đặn hơn 2 triệu đồng tiền bán điện cho công ty điện lực.

Ông Thọ lắp hệ thống điện mặt trời trên mái nhà với tổng công suất lắp đặt là 13 kW, sản lượng điện phát lên lưới từ 1.000 – 1.100 kWh điện. Với giá bán điện ưu đãi 8,38 cent/kWh, mỗi tháng ông Thọ được ngành điện chuyển khoản tiền mua điện 1.9 – 2,1 triệu đồng.

Trừ tiền điện gia đình ông sử dụng khoảng 1,5 triệu đồng/tháng, tính ra mỗi tháng gia đình ông Thọ dư ra khoảng 400.000 – 600.000 đồng từ tiền bán điện.

Theo đánh giá của EVN, tình hình đầu tư lắp đặt hệ thống điện áp mái hiện nay rất sôi động. Ông Võ Quang Lâm – phó tổng giám đốc EVN – cho hay từ ngày 1-7-2019 đến 26-5-2020, đã có thêm 21.250 dự án điện mặt trời áp mái với tổng công suất 449 MW.

“Cho đến nay có 27.990 khách hàng, trong đó đặc biệt có 22.900 khách hàng là hộ gia đình và 5.096 khách hàng là doanh nghiệp đã lắp hệ thống điện mặt trời trên mái nhà của mình với tổng công suất 578 MW. Đây là tín hiệu tốt” – ông Lâm cho hay.

Chia sẻ thêm về quyết định 13, ông Hoàng Tiến Dũng – cục trưởng Cục Điện lực và năng lượng tái tạo (Bộ Công thương) – cho rằng cơ chế khuyến khích trong quyết định này áp dụng chủ yếu cho dự án có chủ trương đầu tư từ cách đây hơn nửa năm, quy mô được áp dụng không nhiều.

Trong khi đó, dự án điện mặt trời có thời gian thi công nhanh, thực tế cho thấy có tập đoàn thực hiện dự án trong thời gian ngắn chỉ 4 tháng.

“Từ nay đến cuối năm còn 7 tháng, các nhà đầu tư hoàn toàn có đủ thời gian để thực hiện dự án và hưởng cơ chế ưu đãi” – ông Dũng nói và cho biết thêm ngay trong tháng 5 đã có văn bản gửi EVN hướng dẫn hợp đồng mua bán điện, điều chỉnh giá điện.

Trên cơ sở đó, EVN hoàn toàn có thể ký kết hợp đồng với người dân trong phát triển điện áp mái.

Thủ tục qua mạng

Với mục tiêu cuối năm 2020, EVN kỳ vọng các khách hàng lắp đặt điện mặt trời áp mái có thể khoảng 1.000 MW nên lãnh đạo EVN cũng cho hay sẽ tạo mọi thuận lợi cho người dân lắp đặt hệ thống điện áp mái.

Theo ông Lâm, để đơn giản hóa thủ tục lắp đặt, EVN đã hoàn thành việc cung cấp dịch vụ công cấp độ 4, nên toàn bộ thủ tục đã được điện tử hóa. Khách hàng chỉ cần liên hệ qua tin nhắn, email và sau 2 ngày từ khi nhận được thông tin, các đơn vị của tập đoàn sẽ liên hệ, ký kết hợp đồng mua bán điện bằng phương thức điện tử.

Ông Nguyễn Quốc Dũng – trưởng ban kinh doanh của EVN – cho biết quy trình ký kết hợp đồng đã dược công khai trên trang web của tập đoàn.

EVN hỗ trợ lắp đặt côngtơ 2 chiều, nên khách hàng chỉ cần đăng ký thông tin khách hàng là có đại diện EVN liên hệ để lắp đặt côngtơ 2 chiều, thủ tục đơn giản, thực hiện theo hợp đồng điện tử và việc mua điện cũng qua mạng.

Vị này cũng tính toán đối với một hộ gia đình có diện tích sử dụng khoảng 100m2, quy mô khoảng 10 kWp (suất đầu tư dao động 13 – 16 triệu đồng/kWp) thì thời gian thi công, đấu nối và bán điện cho EVN chỉ trong khoảng 1 tuần.

Về thời gian thu hồi vốn, ông Dũng cho hay giá điện hiện ở mức khoảng 1.970 đồng thì thời gian thu hồi rất nhanh, khoảng 6 – 8 năm thu hồi xong vốn.

Không thể “băm nát” quy hoạch ngành điện

TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương chia sẻ góc nhìn về bổ sung dự án điện mặt trời, điện gió vào quy hoạch.

Liên tiếp bổ sung dự án điện mặt trời, điện gió vào quy hoạch; đầu tư đường dây truyền tải 500 kV của tư nhân… là những vấn đề mới cần được nghiêm túc nghiên cứu ở góc độ an ninh năng lượng.

TS. Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương chia sẻ góc nhìn về những nội dung này.

.

Việc bổ sung cấp tập các dự án điện mặt trời thời gian qua và giờ đây là điện gió vào Quy hoạch Điện với công suất rất lớn cho thấy điều gì, thưa ông?

Ở đây có 2 vấn đề đặt ra.

Thứ nhất, tại sao cần bổ sung? Có thể, do Quy hoạch chưa đáp ứng được kỳ vọng, yêu cầu của thực tế, cũng đồng nghĩa là, năng lực xây dựng quy hoạch trước đó chưa cao.

Thứ hai, khi bổ sung lượng lớn dự án và công suất, cần đánh giá lại toàn bộ Quy hoạch hiện có, chứ không phải làm theo nhu cầu của nhà đầu tư trong điều kiện Nhà nước đã đưa giá mua điện mặt trời, điện gió lên cao.

Quy hoạch ngành điện không thể làm theo động lực của nhà đầu tư, bởi như vậy sẽ “băm nát” quy hoạch và sau này không thể sửa được.

Làm quy hoạch thì không được bảo thủ, khi cần sẽ phải bổ sung, cập nhật, nhưng phải tiến hành đánh giá thực trạng, cân nhắc tổng thể các nguồn cấp và yếu tố liên quan, chứ không phải lệch về một nguồn nào đó. Cũng không thể làm theo cách, nhà đầu tư này, tỉnh này xin, cơ quan chức năng chấp thuận bổ sung quy hoạch. Tỉnh khác, nhà đầu tư khác cũng xin, lại bổ sung tiếp. Như thế, quy hoạch không còn là quy hoạch nữa.

Đặc biệt, với ngành điện, do tính chất phải có hệ thống truyền tải để tiêu thụ, nên phải tính toán rõ ràng trong Quy hoạch. Nếu cứ bổ sung nguồn, mà hệ thống truyền tải không được bổ sung, hoặc không theo kịp tốc độ bổ sung nguồn, thì tự Nhà nước rơi vào thế bị động và cứ phải giải quyết tình thế đã rồi.

Khi đó, đường dây mà doanh nghiệp tư nhân xây dựng, dù ở cấp điện áp 500 kV từ trước đến nay chưa từng làm, cũng là tình thế để gỡ điểm nghẽn của quá trình bổ sung quy hoạch, chứ không phải là đột phá.

Gần đây, một số dự án điện mặt trời, điện gió sau khi được bổ sung vào quy hoạch hoặc mới hoạt động đã bán lại cho nhà đầu tư nước ngoài? Ông thấy điều này có gì đáng chú ý không?

Nguồn điện của nước ta đang thiếu. Đầu tư vào điện mặt trời và điện gió đang sinh lời lớn với giá mua tốt đã dẫn tới “phong trào” đầu tư từ tư nhân trong nước.

Ở Việt Nam, việc doanh nghiệp chuyển nhượng vốn sau khi xin được dự án là được phép về mặt pháp luật. Về mặt thị trường, chuyển nhượng cũng là bình thường. Tuy nhiên, khi việc chuyển nhượng vốn diễn ra ở nhiều dự án hay có sự phổ biến, thì lại là điều bất thường.

Điều này cho thấy, cơ chế cấp phát dự án, bổ sung quy hoạch mang tính “xin – cho” và đã cho phép cả những nhà đầu tư không đủ năng lực. Như vậy, rõ ràng phải xem lại cách bổ sung quy hoạch các dự án năng lượng tái tạo như đã và đang làm.

Việc chuyển nhượng cho doanh nghiệp khác trong nước cũng cho thấy, nhà đầu tư ban đầu có thể chỉ là “cò” hoặc “chuyên chạy dự án”, còn nhà đầu tư muốn làm thật thì không có cơ hội tiếp cận những dự án năng lượng có hiệu quả về kinh tế nên phải mua lại. Vì vậy, phải tạo cơ hội công bằng cho các nhà đầu tư, để nhà đầu tư có năng lực thực sự, công nghệ vượt trội có quyền tiếp cận và được thực hiện dự án.

Về việc chuyển nhượng vốn/dự án cho nhà đầu tư nước ngoài, thì phải xác định rõ, chúng ta cần gì ở nhà đầu tư nước ngoài? Nếu là cần vốn, thì phải chăng nhà đầu tư ban đầu không có năng lực tài chính, hay cơ chế không đủ thuận lợi để nhà đầu tư nội có thể vay được vốn? Cũng cần làm rõ, có phải trong nước có vốn, nhưng chính sách khó nên không huy động được, hay thực sự không có vốn?

Bên cạnh đó, cần làm rõ “nhà đầu tư nước ngoài” là ai? Liệu họ có mang công nghệ tốt đến không? Nếu đa số người mua đến từ một vài nước lớn hoặc có nhà đầu tư từ nước lớn đứng phía sau, thì cần lưu tâm cả khía cạnh an ninh năng lượng để tránh bị ảnh hưởng, phụ thuộc trong lâu dài.

Theo ghi nhận, các nhà đầu tư mua lại dự án năng lượng sạch gần đây đến từ các nước trong khu vực ASEAN và lân cận, thiếu vắng các nhà đầu tư đến từ các nước phát triển như châu Âu hay Mỹ. Thực tế này nói lên điều gì, thưa ông?

Nói lên rất nhiều điều. Câu hỏi này cũng thường được đặt ra trong quá trình thu hút đầu tư nước ngoài của nước ta. Các nhà đầu tư vào Việt Nam chủ yếu đến từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, hay gần đây là Trung Quốc và ít có đầu tư lớn đến từ Mỹ, châu Âu.

Tôi có đặt vấn đề về lý do “đầu tư vào Việt Nam chưa nhiều” với Đại sứ của một nước phát triển và muốn có những dự án lớn trong ngành năng lượng. Vị đại sứ này nhắc tới một số ý như: hệ thống chưa minh bạch, thủ tục hành chính kéo dài, chính sách không tiên lượng được, thảo luận giữa các cơ quan hữu trách mất quá nhiều thời gian…

Ngoài ra, đầu tư từ “thiên đường thuế” vào Việt Nam chiếm khoảng 1/3 tổng đầu tư nói chung và khi có sự xuất hiện của nhà đầu tư từ “thiên đường thuế”, thì các nhà đầu tư “tử tế” khó có thể vào được nữa.

Nhiều ý kiến cho rằng, việc thu hút tư nhân đầu tư đường dây truyền tải là rất nên làm để giảm gánh nặng trên vai Nhà nước. Quan điểm của ông về vấn đề này thế nào?

Điện là hàng hóa đặc biệt, sản xuất ra thì phải truyền tải đến nơi tiêu thụ. Với tính chất của ngành điện, tôi cho rằng, đối với khâu truyền tải điện, Nhà nước nên độc quyền cả đầu tư và vận hành lưới truyền tải xương sống để đảm bảo tính liên tục, công bằng và an ninh năng lượng.

Tuy nhiên, trong điều kiện đầu tư của Nhà nước không thể bao quát được tất cả, mà tư nhân có điều kiện, thì cũng nên khuyến khích tư nhân bỏ tiền đầu tư truyền tải theo cách: tư nhân đầu tư mạng lưới nhánh và Nhà nước có thể quản lý, trả phí cho tư nhân.

Việc tư nhân “đổ xô” đầu tư vào năng lượng tái tạo dẫn tới phải bổ sung nhiều đường dây mới. Trong khi đầu tư của Nhà nước không thể nhanh do phải qua quy trình duyệt, thì tư nhân đã đề xuất xây dựng đường dây cấp điện áp cao để tải điện từ dự án của mình lên lưới nhằm hưởng ưu đãi giá bán điện cao. Theo ông, điều này có được cho là “đột phá” không?

Ở trường hợp cụ thể, cần phân biệt rõ, đường dây 500 kV mà doanh nghiệp đầu tư ảnh hưởng thế nào tới an toàn hệ thống điện quốc gia. Nếu các doanh nghiệp tư nhân cùng xây dựng một đoạn đường dây 500 kV nào đó để kết nối và truyền tải điện do mình sản xuất ra lên hệ thống điện, thì đường dây này vẫn mang tính chất để bán điện, nhắm tới phục vụ cho lợi ích của doanh nghiệp là chính, chứ chưa phải là truyền tải. Nếu hiểu theo cách đó, thì doanh nghiệp tư nhân phải có trách nhiệm với đường dây mà mình xây dựng.

Cơ quan chức năng phải làm rõ câu chuyện này. Cần xác định vấn đề phải xử lý ở đây là gì để đạt được mục tiêu trong vấn đề cụ thể đó. 

Nhà đầu tư tư nhân cũng đề xuất, sau khi đầu tư đường dây 500 kV sẽ bàn giao lại 0 đồng cho Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN)/Tổng công ty Truyền tải điện quốc gia quản lý vận hành. Nhưng EVN cho rằng, chi phí đầu tư, vận hành, bảo dưỡng đường dây này đã được tính vào giá mua điện cao, nếu nhận bàn giao 0 đồng, thêm 1 lần nữa các chi phí này lại được tính vào giá điện, chưa kể câu hỏi về chất lượng. Ông thấy thế nào?

Đầu tiên, nhà đầu tư xây đường dây phải đảm bảo chất lượng theo tiêu chuẩn quốc gia và được kiểm soát nghiêm ngặt.

Do đường dây mà nhà đầu tư đề xuất chỉ chủ yếu phục vụ việc bán điện của mình lên hệ thống, nên họ phải có trách nhiệm với đường dây này. Nếu cho rằng mình chưa có kinh nghiệm vận hành lưới truyền tải cao áp, nhà đầu tư có thể thuê các doanh nghiệp có chuyên môn vận hành.

Thanh Hương – Báo Đầu Tư