Ồ ạt xin bổ sung Quy hoạch, nhiều chủ đầu tư dự án năng lượng tái tạo “ôm trái đắng”

Từ khi có cơ chế chính sách khuyến khích phát triển năng lượng tái tạo của Chính phủ, trong giai đoạn 2017-2021, dự án điện mặt trời và điện gió phát triển bùng nổ. Nguồn điện quốc gia được bổ sung hàng tỷ kWh mỗi năm. Nhưng việc bổ sung quy hoạch ồ ạt các dự án điện tái tạo vào Quy hoạch điện VII và Quy hoạch điện VII điều chỉnh cũng đã để lại nhiều hệ lụy.

Từ số 0 vươn lên top đầu Đông Nam Á

Đến hết 2020, tổng công suất điện mặt trời nối lưới và điện mặt trời mái nhà là 16.500 MW. Trong đó nguồn điện mặt trời nối lưới đã đưa vào vận hành gần 9.000MW (chỉ riêng Ninh Thuận và Bình Thuận hơn 3.500MW); gần 8.000MW điện mặt trời mái nhà đã được vận hành đến hết năm 2020. Trước đó, tính đến năm 2019, công suất lắp đặt điện mặt trời mái nhà toàn quốc chỉ là 272MW.

Tại Quy hoạch điện 7 điều chỉnh, tổng công suất nguồn điện mặt trời tập trung và phân tán trên mái nhà chỉ khoảng 850MW vào 2020, khoảng 4.000MW vào 2025 và lên 12.000MW vào 2030. Với 16.500MW điện mặt trời đi vào vận hành, công suất điện mặt trời đã vượt xa con số đặt ra tại Quy hoạch điện VII điều chỉnh. Tính riêng năm 2020 khi đại dịch Covid đang diễn biến phức tạp, tính đến hết ngày 31/12/2020, điện mặt trời mái nhà đạt công suất gần 9.296MWp (theo số liệu của EVN), đưa Việt Nam lọt vào top 3 thị trường phát triển nhanh nhất thế giới và là điểm mốc “chói lọi” trong lịch sử ngành điện mặt trời mái nhà tại Việt Nam.

Trong khi đó, nhiều dự án đã bổ sung quy hoạch nhưng chưa đi vào vận hành. Cụ thể, quy mô công suất của các dự án điện mặt trời đã được bổ sung quy hoạch là trên 15.400MW, tổng đăng ký xây dựng nhưng chưa được bổ sung khoảng 97.000MW.

Tại danh mục các dự án điện mặt trời đã vận hành, đã phê duyệt bổ sung quy hoạch và đang nghiên cứu đầu tư của 6 tỉnh được nêu trong quyết định thanh tra, Đắc Lắk đứng đầu, nhưng nếu tính dự án đã đi vào vận hành thì Ninh Thuận xếp số 1. Ninh Thuận có 6.792MW dự án thuộc diện này. Trong đó có 32 dự án đã vận hành với tổng công suất 2.600 MW. Lớn nhất là điện mặt trời Trung Nam, Bim (hơn 400MW), Xuân Thiện – Thuận Bắc (250MW), CMX Renewable Energy VN (168MW). Còn lại là các dự án đã bổ sung quy hoạch và đang nghiên cứu đầu tư

Bình Thuận có 6.495MW thuộc danh mục. Trong đó, có 25 dự án đã vận hành với tổng công suất hơn 1.345MW. Lớn nhất là dự án điện mặt trời Hồng Phong 1A và 1B với công suất 325MW. Đắk Lắk có số dự án thuộc danh mục này lên tới 24.090MW, nhưng mới có 6 dự án đi vào vận hành với tổng công suất 910MW. Đáng chú ý, riêng dự án điện mặt trời EaSup đã có công suất lên tới 720MW.

Đắk Nông có 3.553MW điện mặt trời thuộc danh mục nhưng chỉ có 2 dự án điện mặt trời vận hành với công suất hơn 100MW. Bình Phước có 6.994 dự án thuộc danh mục nhưng mới có 2 dự án vận hành là điện mặt trời Lộc Ninh và Lộc Ninh giai đoạn 2. Trong đó điện mặt trời Lộc Ninh có công suất khổng lồ, lên tới 750MW.

Điện gió cũng vượt quy hoạch

Các dự án điện gió đã vận hành trên toàn quốc đến nay là khoảng hơn 4.000MW. Tuy nhiên, con số đã bổ sung quy hoạch và đang nghiên cứu đầu tư lớn hơn nhiều. Tại Quy hoạch điện 7 điều chỉnh, tổng công suất nguồn điện gió chỉ khoảng 800 MW vào 2020, khoảng 2.000MW vào 2025 và lên 6.000MW vào 2030.

Ngoài ra, tổng quy mô công suất nguồn điện gió đã được phê duyệt bổ sung quy hoạch đến thời điểm tháng 12/2020 lên tới 12.000MW (so với Quy hoạch điện 7 điều chỉnh chỉ đưa ra công suất 850MW), dự kiến theo quy hoạch sẽ vào vận hành giai đoạn 2021-2025.

Tổng quy mô điện gió trên bờ và gần bờ đã đăng ký đầu tư nhưng chưa được bổ sung quy hoạch đến tháng 12/2020 lên tới gần 105.000MW. Như vậy, nếu so với Quy hoạch điện 7 điều chỉnh, công suất điện gió hiện tại đã gần đạt mức đưa ra cho 2030.

Danh sách các dự án điện gió trên bờ và gần bờ đã vận hành, đã phê duyệt bổ sung quy hoạch và đang nghiên cứu đầu tư lên đến hàng trăm nghìn MW. Trong đó Bắc Bộ là 2.210MW, Bắc Trung Bộ là 4.520MW, Trung Trung Bộ là 4.880MW, Tây Nguyên là 36.735MW, Nam Trung Bộ là 12.486MW, Nam Bộ là 32.413MW.

Ninh Thuận có 3.046MW điện gió thuộc danh sách này. Trong đó dự án đã vận hành có tổng công suất là 622MW, gồm: Mũi Dinh 37,6MW; Phong Điện Trung Nam 151,95 MW; Đầm Nại Ninh Thuận 39,38 MW; nhà máy điện gió số 5 Ninh Thuận 46,2MW ; nhà máy điện gió 7A Ninh Thuận 50MW; nhà máy điện gió BIM 88MW; nhà máy điện gió Win Energy Chính Thắng 49,8MW; nhà máy điện gió Phước Minh 27,2MW; nhà máy điện gió Phước Hữu – Duyên Hải 1 29,7MW; nhà máy điện gió Hanbaram 24MW; nhà máy điện gió Lợi Hải 2 28,8MW; nhà máy điện gió Đăk Hòa 49,5MW;

Bình Thuận có 1.119MW; trong đó, số dự án đi vào hoạt động có tổng công suất là 338MW, gồm: Phong điện 1 (giai đoạn 1) Bình Thuận 30MW; Phú Lạc 24MW ; nhà máy điện gió Đại Phong 40MW; nhà máy điện gió Hồng Phong 140MW; nhà máy điện gió Phú lạc – giai đoạn II 25,2MW; nhà máy điện gió Thái Hòa 90MW; nhà máy điện gió Hàm Cường 220MW; nhà máy điện gió Tân Phú Đông 50MW; Thuận Nhiên Phong 19MW.

Đắk Lắk có 17.548MW thuộc danh sách này; trong đó 2 dự án đã vận hành có công suất hơn 428MW. Đắk Nông có 967MW thuộc danh sách này; trong đó chưa ghi nhận dự án điện gió nào vận hành. Bình Phước không ghi nhận dự án điện gió nào vào vận hành.

Bạc Liêu không có dự án điện mặt trời nào vận hành nhưng đây cũng là địa phương có nhiều dự án điện gió được bổ sung quy hoạch, nghiên cứu đầu tư với tổng công suất 6.782MW; trong đó có nhiều dự án vào vận hành như: Bạc Liêu 99,2MW; Đông Hải 1 Bạc Liêu 50MW, Hòa Bình 1 giai đoạn II công suất 50MW, Đông Hải 1 giai đoạn II công suất 50MW, Kosy Bạc Liêu công suất 40MW; Hòa Bình 2 công suất 50MW, Hòa Bình 5 giai đoạn I công suất 80MW.

Những dữ liệu trên cho thấy điện mặt trời và điện gió đã phát triển mạnh hơn nhiều so với Quy hoạch điện 7 điều chỉnh. Điều này cũng khiến một số tỉnh như: Ninh Thuận, Bình Thuận… xảy ra tình trạng quá tải lưới điện, khiến nhiều dự án lâm cảnh sản xuất ra không bán được điện, bị giảm phát điện.

Từ khi giá FIT cho điện mặt trời hết hạn, đã có những tiếng kêu cứu của một số nhà đầu tư điện mặt trời chậm chân, không kịp ngày chốt vận hành thương mại (COD). Đến khi giá FIT cho điện gió hết hạn, nhiều nhà đầu tư lao vào cơn sốt cũng lại lâm cảnh tương tự vì không kịp COD. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng các nhà đầu tư cũng phải xem lại mình. Giá FIT đều có thời hạn được nêu rõ trong các quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Giá FIT1 cho điện mặt trời hết hạn vào 30/6/2019. FIT2 hết hạn vào tháng 30/12/2020. FIT cho điện gió hết hạn vào 31/10/2021. Do đó, các nhà đầu tư phải cân đối nguồn lực, kinh nghiệm, khả năng dự báo tình hình… để có quyết định đầu tư tiếp hay dừng. Nhưng nhiều nhà đầu tư dù đến gần hạn chót, vẫn cố đầu tư để rồi ngậm trái đắng.

Bộ Công Thương: Mua điện tái tạo phải theo quy định pháp luật và nhu cầu phụ tải

Tại Hội nghị trực tuyến khối Công Thương địa phương Quý I/2023 tổ chức ngày 18/4, nhiều địa phương có doanh nghiệp đầu tư các dự án năng lương tái tạo (điện gió, điện mặt trời) đã kiến nghị Bộ Công Thương tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong quá trình đàm phán giá điện chuyển tiếp giữa Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) và các chủ đầu tư.

Lãng phí khi chưa đưa vào vận hành

Theo đó, đại diện các tỉnh có tiềm năng năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời) cho biết nhiều nhà máy điện gió đã hoàn thành, có khả năng phát điện nhưng không kịp tiến độ vận hành trước 31/10/2022 để được hưởng cơ chế khuyến khích phát triển năng lượng tái tạo (giá FIT) của nhà nước hiện vẫn đang chờ hoàn tất các thủ tục để đàm phán theo cơ chế giá điện chuyển tiếp do Bộ Công Thương mới ban hành. Do chưa được huy động nguồn điện năng lượng tái tạo lên lưới đã dẫn tới sự lãng phí nguồn lực của nhà đầu tư.

Cụ thể, theo ông Hà Sỹ Đồng, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Trị, đặc thù là địa phương có lợi thế về năng lượng tái tạo, hiện tỉnh có khoảng 150MW điện năng lượng tái tạo đã hoàn thành và đang gặp rất nhiều khó khăn do chưa được vận hành thương mại.

“Theo báo cáo của nhà đầu tư cũng như EVN thì việc đàm phán còn gặp nhiều vướng mắc cần tháo gỡ, đề nghị Bộ Công Thương sớm ban hành các cơ chế chính sách, có hướng dẫn để đưa các dự án năng lượng này vào khai thác, việc chưa vào vận hành gây lãng phí…,” ông Hà Sỹ Đồng nói.

Đây cũng là tình cảnh chung của các dự án điện gió trên địa bàn tỉnh Đắk Nông được ông Lê Văn Chiến, Phó Chủ tịch thường trực Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Nông chia sẻ và kiến nghị.

“Về các dự án điện gió thì cũng như Quảng Trị và các tỉnh bạn, rất mong Bộ trưởng Bộ Công Thương sớm có sự chỉ đạo EVN để việc thương thảo hợp đồng bán điện cho EVN được thông suốt. Hiện nay, về giá điện hai bên vẫn chưa có sự thống nhất, chúng tôi thấy rất xót xa vì thấy lãng phí. Các trụ điện gió cứ xây dựng lên nhưng lại không được phát điện thì rất lãng phí…,” lãnh đạo tỉnh Đăk Nông nêu ý kiến.

Cần hoàn tất các thủ tục pháp lý

Theo ông Võ Quang Lâm, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), hiện nay việc huy động các nhà máy điện lên hệ thống, bao gồm cả nhà máy điện truyền thống và điện năng lượng tái tạo đều được tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật và thông tư hướng dẫn của các bộ, ngành và đảm bảo công khai, minh bạch.Việc này cũng được công bố hàng tuần trên cổng thông tin của Trung tâm điều độ hệ thống điện quốc gia (A0).

Về các dự án năng lượng tái tạo không đáp ứng được thời điểm để thực hiện giá ưu đãi phải đàm phán giá chuyển tiếp, ông Võ Quang Lâm cho biết đến nay trong 84 dự án năng lượng tái tạo chuyển tiếp, có 23 dự án đã chuyển hồ sơ cho Công ty mua bán điện thuộc Tập đoàn, trong đó có 4 dự án đã làm việc với Công ty mua bán điện và hai bên đang tiếp tục hoàn thiện hồ sơ để tiếp tục triển khai.

Ngoài ra, có 5 dự án hiện nay Công ty mua bán điện đang rà soát các hồ sơ và 14 dự án cũng đã gửi hồ sơ nhưng chưa đủ thì hiện nay Công ty mua bán điện đang đề nghị các chủ đầu tư này hoàn thiện và bổ sung thêm hồ sơ để thực hiện việc đàm phán theo các Thông tư 15 và Quyết định 01 của Bộ Công Thương.

EVN nhấn mạnh trong hồ sơ đàm phán, đề nghị Chủ đầu tư phải cung cấp tối thiểu các văn bản về Quy hoạch/Bổ sung quy hoạch, Quyết định Chủ trương đầu tư, Kết quả thẩm định báo cáo NCKT/TKCS của cơ quan quản lý nhà nước, Quyết định đầu tư dự án…

“EVN cũng báo cáo về việc huy động các nhà máy điện mà chưa có ký hợp đồng mua bán điện theo các quy định của pháp luật hiện nay thì chưa cho phép. Chúng tôi sẽ tập trung cùng với các nhà đầu tư để kết thúc các hợp đồng mua bán điện theo đúng chỉ đạo của Bộ Công Thương…,” ông Võ Quang Lâm nói.

Làm rõ thêm, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh, Bộ Công Thương đã thực hiện đầy đủ trách nhiệm của quản lý Nhà nước trong việc ban hành Thông tư hướng dẫn và Khung giá điện (chuyển tiếp), vấn đề còn lại bây giờ là việc đàm phán giữa EVN và các nhà đầu tư.

Tuy nhiên, ông nhấn mạnh, mới có 23 dự án/tổ hợp dự án trong số 84 dự án của các chủ đầu tư gửi hồ sơ để tham gia đàm phán, số dự án còn lại đến giờ vẫn “không chịu gửi” hồ sơ nên không có cơ sở để đàm phán.

Cơ cấu nguồn điện năm 2022

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho rằng, việc các chủ đầu tư muốn huy động trước khi đàm phán thì không đúng với quy định của pháp luật hiện hành. Mặt khác, trong số các dự án này thì cũng không ít dự án hiện còn thiếu những thủ tục, thực hiện không đúng quy định hiện hành của pháp luật. Cho nên các chủ đầu tư cũng rất là ngại ngần khi nộp hồ sơ để có thể đàm phán với EVN.

Do đó, ông Diên đề nghị chính quyền địa phương chỉ đạo ngành công thương, ngành điện tại địa phương phải rốt ráo làm việc với các chủ đầu tư. 

“Nếu chủ đầu tư muốn huy động, muốn đàm phán và muốn huy động thì phải hoàn tất các thủ tục theo quy định pháp luật, không thể huy động khi chưa hoàn thành các thủ tục theo quy định. Mặt khác, việc huy động điện phải tùy thuộc vào nhu cầu dùng điện, hay nói khác là phụ tải, nếu chúng ta huy động về mà không có phụ tải thì cũng không huy động để làm gì cả, đó là một thực tế…,” Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh.

Trong khi đó, Báo cáo của Bộ Công Thương cũng cho thấy, trong các ngành sản xuất có tốc độ tăng trưởng giảm quý đầu năm, lĩnh vực sản xuất và phân phối điện giảm 1%. Trong đó, điện cho sản xuất công nghiệp nói chung giảm 3,98% trong quý 1/2023 (có 33 tỉnh, thành phố cung cấp điện thấp hơn so với cùng kỳ); điện cho kinh doanh tăng trưởng 17,81% và điện cho sinh hoạt tăng trưởng 4,46%…/.