Bãi bỏ một số quy định về phát triển điện gió, điện mặt trời

Thông tư Thông tư 01/2023/TT-BCT sẽ bãi bỏ hàng loạt các quy định liên đến phát triển dự án và hợp đồng mua bán điện mẫu áp dụng cho các dự án điện mặt trời.

Bộ trưởng Bộ Công Thương ban hành Thông tư 01/2023/TT-BCT ngày 19/01/2023 bãi bỏ một số quy định tại Thông tư 02/2019/TT-BCT thực hiện phát triển dự án điện gió và Thông tư 18/2020/TT-BCT về phát triển dự án điện mặt trời.

Bãi bỏ một số quy định tại Thông tư số 02/2019/TT-BCT ngày 15 tháng 01 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định thực hiện phát triển dự án điện gió và Hợp đồng mua bán điện mẫu cho các dự án điện gió

1. Bãi bỏ khoản 3 Điều 3.

2. Bãi bỏ Điều 4, Điều 7.

3. Bãi bỏ khoản 2 Điều 9.

4. Bãi bỏ điểm c khoản 1 Điều 17.

5. Bãi bỏ một phần của Phụ lục 2 Hợp đồng mua bán điện mẫu áp dụng cho các dự án điện gió ban hành kèm theo Thông tư số 02/2019/TT-BCT ngày 15 tháng 01 năm 2019:

a) Bãi bỏ nội dung sau đây tại khoản 2 Điều 2:

“2.1 Đối với dự án có ngày vận hành thương mại kể từ ngày 01 tháng 11 năm 2018 đến trước ngày 01 tháng 11 năm 2021

a) Bên mua điện có trách nhiệm mua toàn bộ sản lượng điện từ dự án điện gió nối lưới với giá mua điện tại điểm giao nhận điện theo quy định tại Khoản 7 Điều 1 Quyết định số 39/2018/QĐ-TTg đối với phần Nhà máy điện vận hành thương mại trước ngày 01 tháng 11 năm 2021. Đối với phần Nhà máy điện có ngày vận hành thương mại kể từ ngày 01 tháng 11 năm 2021 (nếu có), giá mua điện sẽ được hai Bên xem xét đưa vào Hợp đồng mua bán điện sau khi có hướng dẫn của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về cơ chế giá điện cho giai đoạn này.

b) Giá mua điện quy định tại Mục a) được áp dụng 20 năm kể từ ngày vận hành thương mại của một phần hoặc toàn bộ nhà máy (tùy thuộc vào ngày vận hành thương mại của một phần hoặc toàn bộ nhà máy được xác định theo quy định tại Quyết định số 39/2018/QĐ-TTg ; khoản 9, Điều 1 và Điều 4 của Hợp đồng này).

2.2. Dự án đã vận hành phát điện trước ngày 01 tháng 11 năm 2018 được ký lại Hợp đồng mua bán điện với Bên mua điện để được áp dụng giá mua điện tại điểm giao nhận điện theo quy định tại Khoản 7 Điều 1 Quyết định số 39/2018/QĐ-TTg kể từ ngày 01 tháng 11 năm 2018 đến hết thời hạn còn lại của Hợp đồng mua bán điện đã ký.”.

b) Bãi bỏ nội dung sau đây tại Phụ lục E:

“Hàng tháng Bên mua điện thanh toán cho Bên bán điện toàn bộ lượng điện năng mua bán trong tháng theo giá điện quy định tại khoản 2 Điều 2 theo công thức sau:

Q = k*F*Ag*(1+t)

Trong đó:

– Q là tổng tiền điện thanh toán của Bên mua điện cho Bên bán điện (đồng);

– F là tỷ giá áp dụng là tỷ giá trung tâm của Đồng Việt Nam với Đô la Mỹ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố vào ngày Bên bán xuất hóa đơn thanh toán (đồng/USD).

– t là thuế suất thuế giá trị gia tăng (%).

– k là 0,085 (đối với dự án điện gió trong đất liền) hoặc 0,098 (đối với dự án điện gió trên biển), là hệ số điều chỉnh giá mua điện theo biến động của tỷ giá đồng/USD tương ứng 8,5 UScents/kWh hoặc 9,8 UScents/kWh theo quy định tại Quyết định số 37/2011/QĐ-TTg ngày 29 tháng 6 năm 2011 về cơ chế hỗ trợ phát triển các dự án điện gió tại Việt Nam và Quyết định số 39/2018/QĐ-TTg ngày 10 tháng 9 năm 2018 của Thủ tướng Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 37/2011/QĐ-TTg .

– Ag là điện năng mua bán hàng tháng (kWh), trong đó, trường hợp nhà máy điện không có tua bin chạy thử nghiệm thu, điện năng mua bán hàng tháng được xác định là sản lượng điện năng giao lên lưới tại điểm giao nhận trong tháng thanh toán. Trường hợp nhà máy điện có tua bin chạy thử nghiệm thì điện năng mua bán hàng tháng được xác định như sau:

Ag = A– ATN

+ AG: Sản lượng điện năng thực giao lên lưới tại điểm giao nhận điện trong tháng thanh toán.

+ ATN: Sản lượng điện năng chạy thử của các tua bin trong tháng thanh toán, được xác định như sau:

ATN = Pdm x C x Th x G

+ Pdm: Công suất định mức của 01 tua bin.

+ C: Số tuabin chạy thử nghiệm trong tháng.

+ Th: Số giờ chạy thử nghiệm trong tháng của 01 tuabin.

+ G: Hệ số công suất tua bin trong tháng thanh toán, được tính trên cơ sở bình quân của toàn bộ các tua bin có phát điện thử nghiệm trong tháng.”.

Bãi bỏ một số quy định tại Thông tư số 18/2020/TT-BCT ngày 17 tháng 7 năm 2020 của Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định về phát triển dự án và hợp đồng mua bán điện mẫu áp dụng cho các dự án điện mặt trời

1. Bãi bỏ điểm a khoản 1 Điều 4.

2. Bãi bỏ cụm từ “Giá mua bán điện của hệ thống điện mặt trời mái nhà thực hiện theo quy định tại Điều 8 của Quyết định số 13/2020/QĐ-TTg ngày 06 tháng 4 năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt về cơ chế khuyến khích phát triển các dự án điện mặt trời tại Việt Nam.” tại điểm a khoản 1 Điều 5.

3. Bãi bỏ cụm từ “(không quá 01 MW và 1,25 MWp)” tại điểm a khoản 2 Điều 5.

4. Bãi bỏ một phần của Phụ lục 1 Hợp đồng mua bán điện mẫu áp dụng cho dự án điện mặt trời nối lưới ban hành kèm theo Thông tư số 18/2020/TT-BCT ngày 17 tháng 7 năm 2020:

a) Bãi bỏ điểm a, điểm b và điểm d khoản 2 Điều 2.

b) Bãi bỏ cụm từ “và chấm dứt sau 20 (hai mươi) năm kể từ Ngày vận hành thương mại.” tại Điều 6.

c) Bãi bỏ từ “2020” tại các Phụ lục A, B, C, D, E và G.

5. Bãi bỏ khoản 1 và khoản 2 Điều 2 của Phụ lục 2 Hợp đồng mua bán điện mẫu áp dụng cho Hệ thống điện mặt trời mái nhà ban hành kèm theo Thông tư số 18/2020/TT-BCT ngày 17 tháng 7 năm 2020.

Xem chi tiết tại Thông tư 01/2023/TT-BCT có hiệu lực từ ngày 19/01/2023.

Doanh nghiệp xuất khẩu trước áp lực “thuế carbon”

Vừa qua, các quốc gia thành viên Liên minh châu Âu (EU) thông báo sẽ thực hiện Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM). Theo đó, sẽ đánh thuế carbon đối với tất cả hàng hóa xuất khẩu sang thị trường này dựa trên cường độ phát thải khí nhà kính trong quy trình sản xuất tại nước sở tại…

EU cho hay, CBAM ban đầu sẽ áp dụng đối với các hàng hóa nhập khẩu có nguy cơ ô nhiễm cao như thép, xi măng, phân bón, nhôm, điện và hydro. Đây là những lĩnh vực chiếm tới 94% lượng khí thải công nghiệp của EU. Các nhà nhập khẩu sẽ phải báo cáo lượng khí thải có trong hàng hóa nhập khẩu, nếu lượng khí thải này vượt quá tiêu chuẩn của EU, họ sẽ phải mua “chứng chỉ khí thải” theo mức giá carbon hiện nay tại EU. Dự kiến, 27 quốc gia thành viên EU sẽ bắt đầu thực hiện thí điểm CBAM từ tháng 10/2023.

LẮP ĐIỆN MẶT TRỜI MÁI NHÀ LÀ LỰA CHỌN TỐI ƯU

Chính sách trên sẽ ảnh hưởng lớn tới quyết định từ các nhà mua hàng, đặc biệt là các nhãn hàng lớn và chuỗi kinh doanh quốc tế, khi họ đang tái cấu trúc lại chuỗi cung ứng toàn cầu để bảo đảm các mục tiêu bền vững nghiêm ngặt. Tuy nhiên, những quốc gia xuất khẩu hàng hoá vào EU mà có những chính sách mạnh mẽ nhằm giảm thiểu khí thải carbon sẽ được miễn trừ thuế biên giới carbon. Do đó, để những lô hàng không phải “cõng thuế” thì xanh hóa quá trình sản xuất là lựa chọn tối ưu cho doanh nghiệp.

Chia sẻ về lợi ích của sản xuất xanh, bà Nguyễn Thị Liên, Phó Tổng giám đốc Công ty cổ phần Phong Phú, cho rằng ngành dệt may thuộc nhóm sản phẩm bắt buộc phải tuân thủ các tiêu chuẩn xanh hóa hiện nay với 75 – 96 tiêu chí đánh giá. Hơn 10 năm trước, hàng loạt quy trình đã được doanh nghiệp thay đổi, từ việc quản lý chặt chẽ tiêu thụ năng lượng điện, nước, khí thải, nước thải, xây dựng kế hoạch giảm tiêu hao năng lượng, hóa chất từng tháng đến thay thế dần các thiết bị cũ, tạo môi trường làm việc cho người lao động tốt hơn. Điều này không chỉ giúp doanh nghiệp đáp ứng tiêu chuẩn, nâng cao uy tín với đối tác, mà sản phẩm còn tăng tính cạnh tranh, có nhiều đơn hàng hơn, đặc biệt là những nhãn hàng cao cấp. Hiện tại rất nhiều doanh nghiệp dệt may đã thực hiện kế hoạch “xanh hóa ngành dệt may” bằng nhiều biện pháp, trong đó phải kể đến việc lắp đặt các Hệ thống Điện mặt trời trên mái nhà xưởng, giải pháp giúp tạo ra nguồn điện xanh, sạch và thân thiện với môi trường.

Hoạt động trong ngành vật liệu xây dựng, Công ty cổ phần đầu tư xây dựng và thương mại Ngãi Cầu cho biết đã đầu tư 11 tỷ đồng lắp đặt hệ thống điện mặt trời trên mái nhà xưởng và lấy nguồn năng lượng đó để hoạt động hàng ngày. “Việc lắp đặt hệ thống pin mặt trời giúp chúng tôi được sử dụng nguồn năng lượng sạch, cùng với đó là giúp hạ nhiệt nhà máy khoảng 3 độ so với ngoài trời”, ông Chu Hoàng Tùng, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Ngãi Cầu, cho biết. Lợi ích có thể thấy ngay là giảm thiểu được 800 tấn khí thải ra môi trường mỗi năm và công nhân cảm thấy dễ chịu hơn khi làm việc vì công xưởng trở nên mát hơn.

Đối với ngành thủy sản, ông Hồ Quốc Lực, Giám đốc Công ty cổ phần thực phẩm Sao Ta, cho biết thời gian qua, phong trào làm điện áp mái khá phổ biến ở các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu thủy sản. Với tiêu chí tái chế và tuần hoàn, các doanh nghiệp cũng đang thực hiện khá tốt, điển hình là phụ phẩm cá tôm trở thành nguyên liệu để tiếp tục sản xuất ra các sản phẩm hữu ích, không để phụ phẩm gây tác hại môi trường mà còn tạo ra giá trị nâng cao hiệu quả hoạt động. Các doanh nghiệp cung ứng con giống, thức ăn, chế phẩm nuôi, các cơ sở nuôi đều phải có tiêu chí cụ thể để thực hiện và thống nhất trong cả chuỗi.

Trong cuộc đua sản xuất xanh cũng phải kể đến các doanh nghiệp FDI như Heineken Việt Nam với toàn bộ 6 nhà máy đã nấu bia bằng 100% năng lượng tái tạo; Unilever Việt Nam đạt mức sử dụng 48% năng lượng tái tạo, 100% khí thải từ nhà máy là carbon tích cực. Ngành công nghiệp điện tử dẫn đầu bởi Intel, Microsoft, Foxconn, Samsung, Sanyo, Sony, Fujitsu, Toshiba, Panasonic… cũng đều nỗ lực giảm phát thải carbon.

Sinh sau đẻ muộn nhưng “xanh hóa” nhanh nhất là lĩnh vực xe điện cũng đặt ra yêu cầu ngành công nghiệp bổ trợ phải đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường, sử dụng năng lượng tái tạo trong quá trình sản xuất phụ tùng… Có thể nói, trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt về đơn hàng thì những doanh nghiệp đáp ứng tiêu chuẩn sản xuất xanh, bền vững sẽ có lợi thế vượt trội để trở thành đối tác, nhà cung ứng vào các thị trường quan trọng…