Quy hoạch điện VIII : Tăng tỷ lệ điện khí LNG và năng lượng tái tạo, giảm dần nhiệt điện than

Theo Quy hoạch điện VIII, đến năng 2045 nhiệt điện than sẽ giảm xuống còn 15 – 19%; nhiệt điện khí (tính cả LNG) chiếm 20 – 21%; thuỷ điện lớn, vừa và thủy điện tích năng chiếm 9 -11%; nguồn điện năng lượng tái tạo (thủy điện nhỏ, điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối…) chiếm 26 – 28% và nhập khẩu khoảng 3,1%.

Theo Cổng Thông tin Điện tử Chính phủ, Bộ Công Thương vừa chính thức trình Chính phủ Đề án Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Quy hoạch điện VIII) với một số nội dung nổi bật.

Đến năm 2045, tỷ lệ nhiệt điện than giảm còn 15-19%

Quy hoạch điện VIII dự kiến tới năm 2030, tổng công suất đặt nguồn điện của Việt Nam đạt khoảng 130.400-143.800 MW. 

Trong đó, nhiệt điện than chiếm 28,3 – 31,2%, nhiệt điện khí (tính cả LNG) chiếm 21,1-22,3%; thuỷ điện lớn, vừa và thủy điện tích năng chiếm 17,7-19,5%; nguồn điện năng lượng tái tạo (điện gió, mặt trời, điện sinh khổi) chiếm 24,3 – 25,7%, nhập khẩu điện chiếm 3-4%. 

Đến năm 2045, dự kiến tổng công suất đặt của nguồn điện đạt từ  khoảng 262.000 – 329.610 MW.

Trong đó, nhiệt điện than chiếm 15,4 – 19,4%; nhiệt điện khí (tính cả LNG) chiếm 20,6-21,2%; thuỷ điện lớn, vừa và thủy điện tích năng chiếm  9,1-11,1%; nguồn điện năng lượng tái tạo (thủy điện nhỏ, điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối…) chiếm 26,5-28,4%; nhập khẩu khoảng 3,1%. Tỷ lệ nhiệt điện than giảm mạnh từ 29% năm 2020 xuống còn khoảng 15-19% vào năm 2045.

Các chuyên gia trong lĩnh vực năng lượng cho rằng, đây là sự khác biệt giữa Quy hoạch điện VII (điều chỉnh) và Quy hoạch điện VIII, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế của nước ta cũng như xu thế phát triển năng lượng của thế giới.

Về thủy điện, đây vốn là nguồn năng lượng có điều kiện vận hành linh hoạt, phù hợp với chế độ phủ đỉnh biểu đồ phụ tải, nhất là trong cơ cấu nguồn điện của hệ thống điện có điện mặt trời và điện gió ngày càng tăng. 

Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia, tỷ lệ nguồn thủy điện đang giảm dần vì các dự án thuỷ điện lớn cơ bản đã khai thác và đưa vào vận hành. Khả năng khai thác các công trình thủy điện còn lại hầu hết là những dự án có công suất nhỏ và đang trong giai đoạn chuẩn bị xây dựng, hoặc đang xây dựng. 

Báo cáo rà soát tiến độ thực hiện của các dự án thủy điện giai đoạn 2020-2025 cho thấy, hệ thống có thể bổ sung thêm khoảng 1.840 MW thủy điện vừa và lớn (bao gồm cả các dự án mở rộng, như: Hòa Bình mở rộng thêm 2 tổ máy với tổng công suất 480 MW, Ialy mở rộng thêm 2 tổ máy với tổng công suất 360 MW và Trị An mở rộng thêm 2 tổ máy với tổng công suất 200 MW).

Các dự án thủy điện nhỏ có khả năng phát triển thêm khoảng 2.700 MW trong giai đoạn từ nay đến 2030. Do đó, đến năm 2045, tỷ lệ thủy điện dự báo chỉ còn chiếm 9% trong cơ cấu nguồn của hệ thống điện.

Cẩn trọng với cơ cấu nguồn từ khí LNG

Quy hoạch điện VIII định hướng phát triển các nguồn dùng nhiên liệu truyền thống chuyển sang khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) với quy mô rất lớn từ 0% năm 2020 lên xấp xỉ từ 12.550-17.100 MW năm 2030, chiếm gần 10% – 12% tổng quy mô nguồn năm 2030, tăng dần đến 43.000MW, chiếm từ 15%-17% tổng quy mô nguồn vào năm 2045.

Thực tế cho thấy, nguồn cung từ khí LNG chủ yếu là nhập khẩu và có thể sẽ gặp phải những khó khăn tương tự việc phát triển nguồn nhiệt điện than trong giai đoạn vừa qua.

Do đó, định hướng phát triển các nhà máy điện sử dụng khí LNG cần tính toán trên cơ sở khả năng nhập khẩu LNG và đồng bộ với xây dựng hạ tầng cung cấp LNG (kho cảng, hệ thống lưu trữ, tái hóa, đường ống, …) trên phạm vi cả nước nhằm tối ưu trong đầu tư, tiết kiệm chi phí xây dựng, nhất là hệ thống kho cảng và lưu trữ.

Đáng chú ý, giá nhiên liệu LNG nhập khẩu luôn là yếu tố bất định, có nhiều biến động trong thời gian qua cũng như giai đoạn sắp tới, dẫn đến các vấn đề về giá, cơ chế giá, hình thức đầu tư… là các rủi ro có thể dẫn đến việc phát triển các nguồn điện sử dụng nhiên liệu LNG không cao như định hướng, gây ảnh hưởng đến an ninh năng lượng nói chung và an ninh cung cấp điện nói riêng.

 

Giải bài toán về năng lượng tái tạo

Theo Quy hoạch điện VIII, tỷ trọng nguồn năng lượng tái tạo (NLTT) so với tổng công suất đặt toàn quốc trong năm 2020 là 24,4%, đến 2030 là 24,3-25,7% và đến năm 2045 là 26,5-28,4%%.

Tỷ trọng nguồn NLTT đã được ưu tiên phát triển phù hợp với khả năng bảo đảm an toàn hệ thống với giá thành điện năng hợp lý. 

Tuy nhiên, khi thực hiện cần phân bổ kịch bản phát triển NLTT tối ưu theo khu vực và thời gian thực hiện, trong đó cần ưu tiên phát triển NLTT tại các khu vực lưới điện đáp ứng yêu cầu giải tỏa công suất, đặc biệt khu vực phía bắc (giai đoạn 2021-2030).

Đồng thời giảm khối lượng đầu tư nguồn NLTT giai đoạn 2021-2025 và chuyển sang thực hiện giai đoạn 2026-2030 để đảm bảo tính khả thi thực hiện và ưu tiên thực hiện các nguồn điện có đặc tính điều chỉnh công suất linh hoạt.

Bộ Công thương chính thức trình Đề án Quy hoạch điện VIII lên Thủ tướng

Đề án Quy hoạch điện VIII đặt mục tiêu tăng tỷ lệ điện năng sản xuất từ các nguồn năng lượng tái tạo đạt khoảng 11,9-13,4% vào năm 2030 và khoảng 26,5-28,4% và năm 2045.

Đề án Quy hoạch phát triển Điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Quy hoạch VIII) đã được Hội đồng thẩm định họp xem xét và bỏ phiếu thông qua vào ngày 3/10/2021. Sau khi tiếp thu ý kiến của các thành viên Hội đồng Thẩm định, ngày 8/10, Bộ Công thương đã hoàn thiện và có tờ trình tới Thủ tướng Chính phủ để phê duyệt Đề án Quy hoạch điện VIII

Trong quá trình xây dựng Đề án, Bộ Công thương đã nhận được 681 ý kiến góp ý của các bộ ngành, địa phương, doanh nghiệp, các tổ chức lẫn các chuyên gia hồi đầu năm nay.

Sau khi được rà soát và bổ sung gần đây, Bộ Công thương đã nhận thêm được 157 ý kiến của các cơ quan bộ ngành và 143 ý kiến của các tập đoàn, tổng công ty.

Theo đánh giá của Đề án Quy hoạch Điện VIII, tính tới cuối năm 2020, tổng công suất lắp đặt nguồn điện toàn quốc đạt 69.342 MW, trong đó miền Bắc là 25.121 MW, miền Trung là 12.232 MW và miền Nam là 31.898 MW.

Xét về mặt cơ cấu thì thuỷ điện đóng góp 20.993 MW (30,3% công suất và 29,6% sản lượng); nhiệt điện than là 21.383 MW (30,8% công suất và 50% sản lượng); tuabin khí 9.025 MW (13.1% công suất và 14,6% sản lượng); điện gió là 538 MW (0,8% công suất và 0,4% sản lượng); điện mặt trời 16.506 MW (23,8% công suất, 3,7% sản lượng); các nguồn khác là 325 MW; điện nhập khẩu là 572 MW.

Hiện Hệ thống điện Việt Nam có quy mô đứng thứ 2 Đông Nam Á và thứ 23 trên thế giới.

Về cơ bản, hệ thống điện đảm bảo đáp ứng nhu cầu phụ tải, tuy nhiên dù có công suất lắp đặt tương đối cao so với nhu cầu phụ tải cực đại (69.342/38.617 MW) nhưng mức độ dự phòng công suất của hệ thống khá thấp, do tính chất thay đổi theo mùa của thuỷ điện, nhu cầu sửa chữa, bảo dương nhiệt điện và tính bất định của nguồn điện gió, mặt trời.

Nếu không tính các nguồn điện gió, mặt trời thì vào mùa mưa, tỷ lệ dự phòng công suất khả dụng chỉ là 9,06% và vào mùa khô là khoảng 8,16%.

Trong đề xuất tại tờ trình 6277/TTr-BCT vào ngày 8/10/2021, Bộ Công thương cho hay, kết quả dự báo phụ tải toàn quốc và các miền sau khi tiến hành rà soát không thay đổi so với kết quả đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ tại tờ trình 1682/TTr-BCT ngày 26/3/2021.

Quy hoạch điện VIII lần này được xây dựng nhằm mục tiêu đảm bảo cung cấp đủ nhu cầu điện trong nước, đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của cả nước với mức tăng GDP bình quân là khoảng 6,6%/năm trong giai đoạn 2021-2030 và khoảng 5,7%/năm trong giai đoạn 2031-2045.

Trong số các mục tiêu được đặt ra có việc ưu tiên khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn năng lượng tái tạo phục vụ sản xuất điện, tăng tỷ lệ điện năng sản xuất từ các nguồn năng lượng tái tạo đạt khoảng 11,9-13,4% vào năm 2030 và khoảng 26,5-28,4% và năm 2045.

Theo kế hoạch phát triển nguồn điện, năm 2025, tổng công suất các nhà máy điện khoảng 102.590-105.265 MW, trong đó: thủy điện đạt 25.323 MW chiếm tỷ lệ 24,1-24,7%; nhiệt điện than 29.679 MW chiếm tỷ lệ 28,2-28,9%; nhiệt điện khí (tính cả LNG) 14.117 MW chiếm tỷ lệ 13,4-13,7%; nguồn năng lượng tái tạo ngoài thủy điện (điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối, …) 29.618-31.418 MW chiếm tỷ lệ 28,9-29,8%; nhập khẩu điện 3.853-4.728 MW chiếm tỷ lệ 3,7-4,5%.

Vào năm 2030, tổng công suất các nhà máy điện khoảng 130.371-143.839 MW, trong đó: thủy điện và thủy điện tích năng đạt 26.684-27.898 MW chiếm tỷ lệ 19,4-20,5%; nhiệt điện than 40.899 MW chiếm tỷ lệ 28,4-31,4%; nhiệt điện khí (tính cả LNG) 27.471-32.271 MW chiếm tỷ lệ 21,1-22,4%; nguồn năng lượng tái tạo ngoài thủy điện (điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối, …) 31.380-37.030 MW chiếm tỷ lệ 24,3-25,7%; nhập khẩu điện 3.936-5.742 MW chiếm tỷ lệ 3-4%. Tới năm 2045, tổng công suất các nhà máy điện khoảng 261.951-329.610 MW, trong đó: thủy điện và thủy điện tích năng đạt 35.677-41.477 MW chiếm tỷ lệ 12,6-13,6%; nhiệt điện than 50.949 MW chiếm tỷ lệ 15,4-19,4%; nhiệt điện khí (tính cả LNG) 61.683-88.533 MW chiếm tỷ lệ 23,5-26,9%; nguồn năng lượng tái tạo ngoài thủy điện (điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối, …) 104.900-137.610 MW chiếm tỷ lệ 40,1-41,7%; nhập khẩu điện 8.743-11.042 MW chiếm tỷ lệ 3,3%.

So với tờ trình 1682/TTr-BCT, ở phương án phụ tải cơ sở, năm 2030, tổng công suất đặt trong tờ trình 6277/TTr-BCT đã giảm 7.689 MW, còn năm 2045 giảm 15.000 MW.

Ở phương án phụ tải cao, tờ trình mới cũng giảm 6.000 MW vào năm 2030 và giảm 14.200 MW vào năm 2045.

Bộ Công thương cũng kiến nghị lựa chọn kịch bản phụ tải cao làm phương án điều hành, nhằm đảm bảo mức dự phòng nguồn điện hợp lý, nhằm đáp ứng nhu cầu điện cho nền kinh tế tăng trưởng theo mục tiêu được đặt ra trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2030 và tầm nhìn phát triển đất nước tới năm 2045.

Tổng nhu cầu vốn đầu tư để thực hiện chương trình phát triển điện lực lựa chọn trong giai đoạn 2021-2030 khoảng 99,32-115,96 tỷ USD, trong đó: vốn đầu tư cho phát triển nguồn điện khoảng 85,70-101,55 tỷ USD (mỗi năm khoảng 8,57- 10,15 tỷ USD), cho lưới điện truyền tải khoảng 13,58-14,41 tỷ USD (mỗi năm khoảng 1,36-1,44 tỷ USD).

Tổng nhu cầu vốn đầu tư để thực hiện chương trình phát triển điện lực lựa chọn trong giai đoạn 2031-2045 khoảng 180,1-227,38 tỷ USD, trong đó: vốn đầu tư cho phát triển nguồn điện khoảng 163,14-208,89 tỷ USD (mỗi năm khoảng 10,88-13,93 tỷ USD), cho lưới điện khoảng 16,93-18,49 tỷ USD (mỗi năm khoảng 1,13-1,23 tỷ USD).Tổng công suất nguồn điện gió trên bờ và gần bờ khoảng 11.458-12.208 MW vào năm 2025, khoảng 11.820-12.470 MW năm 2030 và khoảng 27.110- 32.720 MW năm 2045.
Tổng công suất điện gió ngoài khơi khoảng 2.000 MW hoặc có thể cao hơn khi điều kiện kinh tế và kỹ thuật cho phép vào năm 2030 và khoảng 21.000-36.000 MW năm 2045.
Tổng điện năng sản xuất từ các loại hình điện gió dự kiến chiếm tỷ trọng khoảng 7,9-8,1% vào năm 2025, khoảng 5,7-6,8% năm 2030 và khoảng 15,7-17,9% năm 2045.
Phát triển các nguồn điện năng lượng mặt trời, gồm cả các nguồn tập trung lắp đặt trên mặt đất, mặt hồ và các nguồn phân tán lắp đặt trên mái nhà. Tổng công suất nguồn điện mặt trời khoảng 16.990-18.040 MW vào năm 2025, khoảng 18.390-21.390 MW năm 2030 và khoảng 51.540-63.640 MW năm 2045

Theo Báo điện tử Đầu Tư.