Tổng hợp các ý kiến tại Hội nghị tham vấn quốc tế về Quy hoạch điện VIII

Ngày 4/5, ông Đặng Hoàng An, Thứ trưởng Bộ Công Thương đã chủ trì Hội nghị tham vấn quốc tế về Quy hoạch điện lực quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch điện VIII). Hội nghị được tổ chức với sự tham gia của hơn 60 đại biểu trong nước và quốc tế.

Về phía Việt Nam: đại diện các đơn vị của Bộ Công Thương tham dự Hội nghị bao gồm: Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo, Cục Điều tiết điện lực, Vụ Dầu khí và Than, Vụ Tiết kiệm năng lượng và Phát triển bền vững, Vụ Thị trường châu Á – châu Phi, Vụ Thị trường châu Âu – châu Mỹ, Viện Năng lượng.

Về phía các đối tác, tổ chức quốc tế: Hội nghị đã thu hút sự quan tâm, tham dự của đại diện các Đại sứ quán các nước tại Việt Nam bao gồm: Hoa Kỳ, CHLB Đức, Đan Mạch, Úc, Phái đoàn Liên minh châu Âu; các tổ chức quốc tế: Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Ngân hàng Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC), Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), Cơ quan Hợp tác Phát triển Đức (GIZ), Hiệp hội Doanh nghiêp Châu Âu tại Việt Nam (EUROCHAM), Hiệp hội Doanh nghiệp Hoa Kỳ tại Việt Nam (AMCHAM), Hiệp hội Doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam (JCCI), Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam (VBF), Quỹ Đối tác chuyển dịch năng lượng Đông Nam Á tại Việt Nam (ETP), Liên minh năng lượng vì hành tinh và con người (GEAPP)…

Phát biểu tại Hội nghị, với vai trò đại diện cơ quan lập quy hoạch, Thứ trưởng Đặng Hoàng An đã nhấn mạnh: “Bộ Công Thương được Thủ tướng Chính phủ giao là cơ quan lập Quy hoạch điện VIII (PDP8). Trong thời gian qua, Bộ Công Thương đã khẩn trương xây dựng, hoàn thiện dự thảo và nhiều lần báo cáo Thủ tướng Chính phủ xin chủ trương phê duyệt Quy hoạch điện VIII. Được xem là một quy hoạch ngành rất quan trọng, Quy hoạch điện VIII phải đảm bảo vững chắc an ninh năng lượng quốc gia, cung cấp đủ điện ổn định, có chất lượng cao với giá thành hợp lý cho phát triển kinh tế – xã hội nhanh và bền vững theo các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ Việt Nam. Đặc biệt, sau khi Việt Nam cam kết đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 tại Hội nghị Thượng đỉnh về biến đổi khí hậu (COP26) và tham gia Chương trình Đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP), việc hoàn thiện dự thảo Quy hoạch điện VIII càng trở nên thách thức và cần thêm nhiều thời gian để rà soát và đưa ra những điều chỉnh phù hợp nhằm đạt được các mục tiêu về chuyển dịch năng lượng và khí hậu…”.

Các đối tác, tổ chức quốc tế nói gì về Quy hoạch điện 8?
Ông Đặng Hoàng An, Thứ trưởng Bộ Công Thương chủ trì Hội nghị.

Đại sứ quán Hoa Kỳ: Ủng hộ nỗ lực và bước đi tiên phong của Việt Nam

Theo bà Melissa Bishop – Đại biện lâm thời, Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam và bà Kristina Buenda – Trưởng bộ phận hợp tác phát triển, Liên minh châu Âu tại Việt Nam đều đánh giá, quá trình chuyển đổi năng lượng rất phức tạp và đầy thách thức, đòi hỏi các nguồn lực và chuyên môn quan trọng. Việt Nam đã có những bước đi tiên phong hướng tới quá trình chuyển đổi sang năng lượng sạch bằng cách trở thành một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới cam kết tham gia Đối tác Chuyển đổi Năng lượng Công bằng (được gọi là JETP).

Để đạt được các mục tiêu về khí hậu này, việc thực hiện đúng Quy hoạch điện VIII (PDP8) là rất quan trọng, phía Hoa Kỳ và EU đưa ra một số khuyến nghị xem xét để phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia: 1) phù hợp với mục tiêu JETP, 2) Giảm phát thải và chuyển đổi đổi than, 3) Truyền tải điện và 4) Pin lưu trữ.

Hoa Kỳ ủng hộ nỗ lực của Việt Nam trong việc dừng có lộ trình giảm phát thải các nhà máy nhiệt điện than, đặc biệt là không phát triển khoảng 6GW dự án nhiệt điện than theo PDP8. Ngoài ra, Hoa Kỳ ủng hộ Việt Nam trong chính sách phát triển không giới hạn công suất điện mặt trời áp mái để giảm áp lực cho đường dây truyền tải.

Tuy nhiên, Hoa Kỳ đề xuất Bộ Công Thương cần phân tích kỹ lưỡng dự thảo PDP8 và JETP, để phù hợp với các giới hạn phát thải của JETP và các mục tiêu năng lượng tái tạo và kiến nghị bổ sung PDP8 đặt mục tiêu đạt được 170 triệu tấn carbon dioxide tương đương vào năm 2030 với sự hỗ trợ của JETP.

PDP8 là một quy hoạch mở và linh hoạt bằng cách cho phép tập trung vào giảm phát thải, thay vì tập trung vào chuyển đổi nhiên liệu. Hoa Kỳ khuyến nghị phát triển các dự án năng lượng mặt trời của Việt Nam rất quan trọng để thúc đẩy các mục tiêu giảm phát thải; các dự án này cần được ưu tiên cao hơn và không được trì hoãn cho đến năm 2030.

Các chính sách tạo điều kiện cho khu vực tư nhân đầu tư vào lĩnh vực truyền tải là cần thiết để thực hiện thành công các mục tiêu về năng lượng tái tạo của Việt Nam. Đường truyền liên tỉnh được ưu tiên hàng đầu. Một mốc thời gian nhanh hơn cho các đường dây truyền tải dòng điện một chiều điện áp cao sẽ rất quan trọng để khuyến khích toàn bộ tiềm năng của gió ngoài khơi. Xuất khẩu điện gió ngoài khơi là cơ hội tốt để phát triển ngành công nghiệp tại Việt Nam, trong đó tiêu thụ điện gió ngoài khơi trong nước sẽ tối đa hóa giá trị.

Và việc bổ sung thêm công suất Hệ thống lưu trữ năng lượng pin (BESS) cho thủy điện tích năng được bơm sẽ cho phép linh hoạt hơn trong phát triển năng lượng tái tạo. Bao gồm phát triển nguồn nhân lực, chẳng hạn như đào tạo và đào tạo lại lực lượng lao động để phù hợp với công nghệ sạch, lộ trình chuyển đổi nhiên liệu và ngừng hoạt động của các nhà máy điện than, sẽ có lợi.

Chống biến đổi khí hậu là ưu tiên chung của Hoa Kỳ và Việt Nam, và Hoa Kỳ mong muốn thực hiện cam kết hỗ trợ các mục tiêu khí hậu của Việt Nam. Hoa Kỳ đang cung cấp hỗ trợ kỹ thuật về xây dựng chính sách và khung pháp lý để hỗ trợ quá trình chuyển đổi năng lượng sạch của Việt Nam và sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam thực hiện thành công PDP8 và Thỏa thuận mua bán điện trực tiếp khi được phê duyệt.

Đại sứ quán CHLB Đức: Việt Nam nên đẩy mạnh hơn nữa phát triển điện mặt trời mái nhà

Ông Santiago Alfonso – Trưởng bộ phận hợp tác kinh tế, Đại sứ quán Đức tại Việt Nam cho biết, phía Đức ủng hộ các nỗ lực của Bộ Công Thương trong việc xây dựng Quy hoạch điện VIII (PDP8).

Phía Đức đề xuất Việt Nam nên đẩy mạnh hơn nữa phát triển điện mặt trời mái nhà đặc biệt là điện mặt trời mái nhà trong các khu công nghiệp.

Ngoài ra, Đức đề xuất nên tận dụng khuôn khổ sẵn có của Nhóm Đối tác Năng lượng Việt Nam (VEPG) để hỗ trợ, lồng ghép các hoạt động của JETP. Hiện tại, Nhóm công tác về Điện gió ngoài khơi trong khuôn khổ Nhóm Công tác số 2 về Năng lượng tái tạo đang được triển khai tốt.

Đại sứ quán Anh: Nỗ lực hơn nữa để đạt các mục tiêu JETP

Phía Anh hoan nghênh tiến độ công bố PDP8, đây là một bước quan trọng để tăng cường khả năng dự đoán cho các nhà phát triển và nhà đầu tư trong các dự án năng lượng xanh, nhằm thực hiện các mục tiêu chuyển đổi năng lượng của Việt Nam và đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về năng lượng sạch, giá cả phải chăng.

Phía Anh ghi nhận các mục tiêu về năng lượng tái tạo và cam kết về công suất điện than cao nhất không quá 30,2GW đã được giữ nguyên trong dự thảo mới nhất và lưu ý rằng các đánh giá chi phí thấp nhất về các lộ trình khử cacbon cho Việt Nam cho thấy rằng các mục tiêu tăng trưởng năng lượng tái tạo và giảm dần nhiên liệu hóa thạch có thể còn nhiều tham vọng hơn – tham vọng cần thiết để thực hiện JETP.

Tuy nhiên, Anh đồng quan điểm với phía Hoa Kỳ và EU lưu ý rằng dự thảo PDP8 cần chú ý về mức phát thải điện năng cao nhất vào năm 2030 và tỷ lệ phát triển năng lượng tái tạo.

Hiệp hội Thương mại Hoa Kỳ (AMCHAM): Tập trung hơn nữa vào cung cấp tài chính

Ông John Rockhold – Chủ tịch AMCHAM tại Việt Nam: AMCHAM ghi nhận bản dự thảo mới nhất của Quy hoạch điện VIII đã có ghi nhận JETP là giải pháp quan trọng cho quá trình chuyển dịch năng lượng ở Việt Nam. Lộ trình chuyển dịch phía trước của đất nước không chỉ cần đảm bảo an ninh năng lượng mà còn phải đảm bảo các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội trong quy hoạch tổng thể các ngành, lĩnh vực. Tuy nhiên, để đảm bảo tính khả thi về tài chính của việc thực hiện Quy hoạch điện VIII dự kiến, AMCHAM đề xuất là tập trung vào vấn đề cung cấp tài chính cho các dự án điện và năng lượng. Việt Nam sẽ cần các dự án năng lượng khả thi cả về mặt kinh tế và tài chính ngân hàng. Ngoài việc đảm bảo ổn định, vững mạnh và tăng trưởng hệ thống lưới điện, Việt Nam cũng phải đảm bảo đủ nguồn điện chạy nền để dần thay thế cho than. Điều này có nghĩa việc chuyển dịch sang năng lượng tái tạo, hydrogen, điện gió và điện mặt trời có hệ thống lưu trữ sẽ phải đạt được khi có sự kết hợp cùng với nguồn điện khí/LNG linh hoạt mà phần nhiều trong số đó sẽ ruốt cuộc được dần dần chuyển sang hydrogen để làm nguồn chạy nền, cùng với các giải pháp năng lượng tái tạo quy mô lớn độc lập không nối lưới và việc phát triển chương trình sử dụng năng lượng hiệu quả.

Phần lớn vốn đầu tư cần thiết để thực hiện PDP8 phải đến từ khu vực tư nhân và quá trình này đòi hỏi một hệ thống cơ chế, chính sách, thể chế, pháp lý mạnh mẽ và thực tế đủ để thu hút đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân toàn cầu, thông qua việc đầu tư phát triển và cấp tài chính cho các dự án cụ thể được đề xuất trong Quy hoạch điện 8, cũng như việc cung cấp hỗ trợ tài chính và kỹ thuật để thực thi hiệu quả PDP8. Quá trình đó có thể được hỗ trợ bởi các đại diện từ khu vực kinh tế tư nhân như Ban Năng lượng AmCham Việt Nam – hiện đang tích cực hoạt động tại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam (Vietnam Business Forum) – tham gia vào các nhóm công tác chuyển dịch năng lượng hiện tại như Ban thư ký Chương trình quan hệ đối tác về chuyển dịch năng lượng công bằng (JETP) và những Ủy ban soạn thảo chính sách liên quan. AMCHAM sẵn sàng tiến hành các nghiên cứu đánh giá tác động của các dự luật và các quy định, cung cấp các nghiên cứu về các thực tiễn tốt nhất và tiến hành đối thoại tương tác thường xuyên trong quá trình lấy ý kiến và soạn thảo để thực hiện được mục tiêu chuyển dịch năng lượng cho việc thực hiện Quy hoạch điện VIII dự kiến.

Việc Chính phủ Việt Nam hỗ trợ chủ động hơn đối với các nguồn tài chính nước ngoài cũng cần thiết để đảm bảo tính khả thi về mặt tài chính cho các dự án có quy mô lớn. Việc cải thiện khung cơ chế, pháp lý về hợp đồng và quản lý rủi ro, trong đó tập trung nâng cao tính có thể dự báo, hiệu quả, chắc chắn và rõ ràng, là rất cần thiết để tiếp tục thu hút các khoản đầu tư dài hạn của khu vực kinh tế tư nhân vào ngành Điện ở Việt Nam. Các dự án điện gió trên bờ và điện gió ngoài khơi quy mô lớn khai thác tiềm năng to lớn của Việt Nam cùng với kết hợp hệ thống lưu trữ năng lượng có thể tạo ra sự ổn định cơ cấu nguồn điện và giải quyết những hạn chế hiện nay. Một lượng đầu tư lớn đang được đổ dồn vào năng lượng và cải tiến công nghệ lưu trữ năng lượng, và rất nhiều trong số đó đang đạt được tiến bộ mỗi ngày.

Trong thời gian ngắn hạn, các nhà đầu tư và nhà sản xuất điện đang tìm kiếm cơ hội đầu tư vào năng lượng tái tạo có tính thực tế. Một giải pháp kịp thời là điều cần thiết hơn bao giờ hết để chấm dứt bế tắc đã không may tạo ra những lo ngại về môi trường đầu tư năng lượng tái tạo tại Việt Nam và để các khu công nghiệp có thể tự cung cấp điện từ năng lượng tái tạo cho các nhà máy thuộc khuôn viên của họ. Chúng tôi cho rằng, giải pháp kịp thời cho các quan ngại này sẽ là một cách hiệu quả để duy trì việc thu hút các doanh nghiệp FDI khi họ cần đáp ứng các tiêu chuẩn xanh.

Hiệp hội Doanh nghiệp Nhật Bản JCCI: Điều cần thiết là phê duyệt PDP8 càng sớm càng tốt

Nhu cầu sử dụng điện ngày càng tăng rõ ràng sẽ dẫn đến tình trạng thiếu điện ở Việt Nam trong thời gian tới. Để giảm bớt những lo ngại từ ngành, điều cần thiết là phê duyệt PDP8 càng sớm càng tốt để đảm bảo rằng các khoản đầu tư vào sản xuất điện phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế.

Trong những năm gần đây, các công ty Nhật Bản đã tăng cường các dự án đầu tư vào Việt Nam do nhu cầu phát điện tái tạo ngày càng tăng. Tuy nhiên, sự chậm trễ trong PDP8 đã ảnh hưởng nghiêm trọng không chỉ đến các nhà máy điện tái tạo mà còn đến các ngành liên kết như sản xuất nhiên liệu sinh khối vốn đã bị tạm dừng. Tôi muốn nhắc lại yêu cầu của chúng tôi về việc phát hành sớm PDP8.

Thứ nhất là việc xây dựng hệ thống pháp luật và văn bản hướng dẫn thi hành. Chúng tôi hy vọng rằng các biện pháp sẽ được thực hiện càng sớm càng tốt để hiện thực hóa năng lượng tái tạo quy mô lớn, đặc biệt là các dự án điện gió ngoài khơi quy mô lớn có nhiều tiềm năng tại Việt Nam. Cụ thể là xây dựng phương pháp lựa chọn đơn vị vận hành và xem xét hợp đồng mua bán điện hiện có.

Ví dụ, một kế hoạch đấu thầu trong đó chính phủ tiến hành khảo sát vùng biển, chỉ định khu vực, mời thầu và chọn nhà điều hành sẽ rất hữu ích, vì nó đã được giới thiệu bởi Nhật Bản và các Chính phủ khác có kinh nghiệm với quy mô lớn. các dự án năng lượng tái tạo.

Điều này sẽ thu hút các công ty và tổ chức tài chính nước ngoài có chuyên môn trong các dự án năng lượng tái tạo quy mô lớn, dẫn đến việc triển khai sớm.

Ngoài ra, JCCI đề xuất thúc đẩy việc lắp đặt điện mặt trời trên mái nhà và nới lỏng các yêu cầu về tính đủ điều kiện đối với dự thảo hợp đồng mua bán điện trực tiếp (DPPA) đối với năng lượng tái tạo.

Ngoài ra, theo dự thảo DPPA, người tiêu dùng bắt buộc phải mua trực tiếp từ các nhà máy phát điện có quy mô tối thiểu 30MW, nhưng rất khó để một công ty đơn lẻ tham gia vì số lượng tối thiểu này quá lớn để tiêu thụ.

Nếu được phép tham gia với tư cách là một khu công nghiệp nói chung hoặc với tư cách là một tập hợp của một số công ty ở cách xa nhau, DPPA sẽ được thúc đẩy hơn nữa. Nếu việc tiêu thụ năng lượng tái tạo được mở rộng, thì mục tiêu trung hòa carbon sẽ đạt được.

Thứ hai, đảm bảo nguồn điện phụ tải cơ sở để tạo điều kiện chuyển đổi sang năng lượng tái tạo. JCCI tin rằng sản xuất điện từ khí đốt là điều cần thiết để cung cấp điện ổn định như một nguồn năng lượng chuyển tiếp góp phần giảm phát thải carbon dioxide ở Việt Nam.

Ngoài ra, nó còn cần thiết với vai trò là nguồn điện phụ tải nền đóng vai trò thiết yếu trong việc điều tiết sản lượng của lưới điện, từ đó thúc đẩy năng lượng tái tạo.

Điều quan trọng là phải chuẩn bị cho tình trạng thiếu điện khẩn cấp bằng cách ưu tiên phát triển mỏ khí “Block-B” và tổ hợp nhà máy điện “Ô Môn” bằng cách sử dụng các nguồn khí tự nhiên có giá trị trong nước.

Cũng cần thúc đẩy việc sử dụng LNG như một nguồn bổ sung cho các nguồn điện khi khí đốt trong nước là không đủ.

Hiệp hội doanh nghiệp châu Âu EUROCHAM

EUROCHAM đề xuất Bộ Công Thương nên đưa ra các chính sách rõ ràng hơn cho phát triển điện gió ngoài khơi và phát triển năng lượng xanh, kinh tế xanh.

Diễn dàn doanh nghiệp Việt Nam (VBF)

VBF đề xuất Bộ Công Thương xây dựng kế hoạch triển khai Quy hoạch điện 8. Ngoài ra, cần làm rõ vai trò của chính quyền địa phương và các cơ quan Trung ương trong quá trình triển khai thực hiện dự án.

Công ty Eqinor

Quy hoạch điện 8 là quy hoạch động, mở. Theo đó, các khung khổ pháp lý và cơ chế chính sách có được điều chỉnh trong quá trình triển khai quy hoạch hay không?

Ngân hàng Phát triển châu Á: 5 đóng góp, khuyến nghị

Ông Keiju Mitsuhashi – Phó Giám đốc Quốc gia, Ngân hàng Phát triển châu Á chúc mừng Bộ Công Thương về dự thảo PDP8 mới nhất. Quy hoạch điện 8 được xây dựng với nhiều thách thức để đáp ứng nhiều yêu cầu, bao gồm đảm bảo an ninh năng lượng và khả năng chi trả đồng thời đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Chúng tôi ủng hộ định hướng tổng thể của dự thảo PDP8. ADB đưa ra một số ý kiến đóng góp như sau:

Thứ nhất, liên quan đến tắc nghẽn lưới điện khẩn cấp và các vấn đề cắt giảm cao. ADB tin rằng dự thảo PDP8 đã đặt trọng tâm phù hợp vào phát triển lưới điện truyền tải. Giảm bớt tắc nghẽn và giảm rủi ro cắt giảm năng lượng tái tạo là rất quan trọng. ADB sẵn sàng xem xét tài trợ từ Chính phủ và ngoài Chính phủ để tăng cường hệ thống lưới điện truyền tải với các dịch vụ phụ trợ nhằm đảm bảo sự ổn định của lưới điện với nhiều năng lượng tái tạo hơn.

Thứ hai, liên quan đến phát triển thị trường điện cạnh tranh. Quá trình chuyển đổi năng lượng nên được thực hiện với chi phí thấp nhất cho nền kinh tế và con người. Các chính sách giá bán điện mặt trời và gió của Việt Nam đã khuyến khích khối lượng đầu tư lớn từ khu vực tư nhân và cho phép thị trường điện mặt trời và gió phát triển rất nhanh nhưng nó đi kèm với một chi phí cao. Để giải quyết vấn đề này, ADB hoan nghênh quyết định của Chính phủ thiết lập cơ chế đấu thầu cho các dự án thế hệ mới. Lộ trình thị trường điện cạnh tranh đang trong quá trình chuẩn bị. ADB đã và đang hỗ trợ Bộ Công Thương chuẩn bị cơ chế đấu thầu này, bao gồm cả dự án đấu giá thí điểm với nghiên cứu khả thi. ADB sẵn sàng tiếp tục hỗ trợ Bộ Công Thương và chính quyền các tỉnh triển khai dự án đấu giá và xây dựng các khung pháp lý và quy định liên quan.

Thứ ba, vấn đề ổn định lưới điện. ADB nhận thấy các thách thức của việc hỗ trợ tích hợp sản xuất năng lượng tái tạo không liên tục trong hệ thống lưới điện. Điều này sẽ đòi hỏi sự linh hoạt đáng kể của hệ thống điện để cân bằng đầy đủ giữa cung và cầu. Việt Nam có một số cách mới để giải quyết thách thức này nhưng điều quan trọng là phải thực hiện phương pháp tiếp cận dự án thí điểm thông qua khu vực công để trước tiên xác định các lĩnh vực cần cập nhật pháp lý và quy định, đồng thời đánh giá giá trị kinh tế và tài chính của các dự án này trong hệ thống điện của Việt Nam, có thể được sử dụng làm chuẩn mực để phát triển các khuôn khổ pháp lý và quy định phù hợp cũng như các cơ chế thị trường hiệu quả. ADB sẵn sàng xem xét tài trợ: (i) dự án thí điểm hệ thống lưu trữ năng lượng bằng pin (BESS) để kiểm soát tần số và giảm giờ cao điểm và (ii) dự án thí điểm đáp ứng nhu cầu (DR), đặc biệt là ở khu vực phía Bắc nơi có nguy cơ thiếu điện cao. ADB đã hỗ trợ EVN và ERAV trong việc chuẩn bị các dự án BESS và DR, đồng thời xác định các lĩnh vực cần cập nhật quy định và pháp lý. ADB cũng đang giới thiệu chương trình Cơ chế chuyển đổi năng lượng (ETM), tập trung vào các dự án tiện ích nhằm chuyển đổi nhiên liệu của các nhà máy nhiệt điện than hiện có và tăng tốc đầu tư vào lưới điện và kho lưu trữ.

Thứ tư, gia tăng xe điện. Với mục tiêu đạt phát thải ròng vào năm 2050, Việt Nam đã công bố tham vọng 100% xe điện sẽ chạy bằng năng lượng điện và năng lượng xanh, đồng thời phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng sạc điện trên cả nước. Trong dự thảo PDP8 hiện tại, tác động của EV và cơ sở hạ tầng sạc EV đối với biểu đồ phụ tải và hoạt động của hệ thống lưới điện không được phản ánh; cũng như cơ hội sử dụng các phương tiện được kết nối như một kho lưu trữ năng lượng để cung cấp các dịch vụ lưới điện. ADB đã cung cấp 135 triệu đô la cho VinFast, công ty con của Tập đoàn Vin Group để mở rộng sản xuất xe buýt điện tử và cơ sở hạ tầng sạc điện cho xe điện. Ngoài ra, ADB đang hỗ trợ VinFast trong việc nâng cao nhận thức cộng đồng về lợi ích của việc sử dụng xe điện và đánh giá tác động của quá trình chuyển đổi sang xe điện của Việt Nam. ADB hiện đang làm việc với ERAV để hỗ trợ nghiên cứu này như một hỗ trợ mới và cam kết cung cấp thêm bất kỳ hỗ trợ nào.

Thứ năm, Dự thảo PDP8 đã xác định yêu cầu đầu tư cho phát điện và lưới truyền tải từ năm 2021 đến 2030 là một nhu cầu tài chính lớn. Các hoạt động thuộc Chính phủ và không thuộc Chính phủ của chúng tôi có chung các mục tiêu phát triển, do đó ADB có vị trí thuận lợi để lồng ghép hai mục tiêu này vào hỗ trợ tổng thể của ADB cho ngành Điện của Việt Nam. ADB cũng dự định cung cấp thêm các hoạt động hỗ trợ kiến thức nâng cao, tư vấn giao dịch PPP và kết hợp tài trợ và đồng tài trợ từ các bên cho vay thương mại để bổ sung cho những nỗ lực này. Đặc biệt, ADB muốn nhấn mạnh rằng tài trợ hỗn hợp cho phép chia sẻ rủi ro giữa khoản vay công và tư nhân, tăng cường khả năng tiếp cận của Việt Nam với nhiều nguồn tài trợ hơn từ các nguồn Chính phủ và ngoài Chính phủ với chi phí vay thấp hơn và linh hoạt hơn về thời hạn trả nợ, lãi suất và các điều kiện tài chính khác. Tuy nhiên, ADB lưu ý rằng tài trợ hỗn hợp ở Việt Nam bị hạn chế do thiếu khuôn khổ pháp lý và quy định. ADB sẵn sàng thảo luận và hỗ trợ giải quyết những thách thức pháp lý và quy định đối với tài chính hỗn hợp.

Các tổ chức tài chính khác

Bà Chiaria Odetta Rogate – chuyên gia năng lượng cao cấp của Ngân hàng Thế giới (WB) cho rằng, nhu cầu về nguồn điện của Việt Nam cho phát triển nguồn và lưới điện là rất lớn. Vấn đề truyền tải điện cần đáp ứng được các yêu cầu về kỹ thuật, thương mại và an toàn. WB đề xuất Việt Nam cần cải thiện môi trường đầu tư trong nước và quốc tế để có thể tiếp cận được các nguồn vốn vay.

Ngân hàng Hợp tác quốc tế Nhật Bản JBIC nhấn mạnh vai trò quan trọng của việc hiện thực hoá chuyển dịch năng lượng (Realistic Energy Transition) nhằm đảm bảo tăng trưởng và giảm các bon. Việt nam cần có quá trình dài hạn cho các công nghệ đồng đốt. JBIC đề xuất cải thiện các khung khổ pháp lý và quy định.

Trong khi đó, Ngân hàng Phát triển Pháp AfD cho biết đang chuẩn bị gói tài chính cho Việt Nam. Hiện tại, AFD đang triển khai chương trình hợp tác kỹ thuật với EVN với gói tài chính xấp xỉ 1 triệu USD. AFD cùng với JBIC đang tham gia dự án Thuỷ điện tích năng Bắc Ái công suất 1.200MW. Đây được xem là dự án quan trọng nhằm giúp Việt Nam hấp thụ các nguồn năng lượng tái tạo tốt hơn.

Phát biểu kết luận hội nghị, Thứ trưởng Đặng Hoàng An: Bộ Công Thương ghi nhận và đánh giá cao các đóng góp tích cực này và khẳng định Hội nghị tham vấn quốc tế về Quy hoạch điện 8 là diễn đàn thảo luận quan trọng nhằm giúp Bộ Công Thương hoàn thiện nội dung Quy hoạch đảm bảo tính khách quan, khoa học và khả thi và hướng tới việc phát triển ngành năng lượng Việt Nam bền vững, đạt được các mục tiêu chung về an ninh năng lượng và chống biến đổi khí hậu.

Tuy nhiên, về những khó khăn, vướng mắc và thách thức theo khuyến nghị của các tổ chức quốc tế sẽ được hoá giải trên cơ sở vừa là mục tiêu, vừa là giải pháp. Quy hoạch điện 8 được xây dựng trên tinh thần phát huy nội lực, đồng thời tăng cường sự hợp tác, hỗ trợ từ các đối tác quốc tế, các định chế tài chính song phương và đa phương. Trên cơ sở những sự đồng hành, hỗ trợ cả về công nghệ, tài chính, quản trị, nhân lực của cộng đồng quốc tế và sự nỗ lực của Việt Nam, chắc chắn Việt Nam sẽ đạt được các mục tiêu JETP đề ra.

Phát biểu của Thứ trưởng Bộ Công Thương Đặng Hoàng An nhận được sự đồng tình, ủng hộ của các đại biểu dự hội nghị và đánh giá cao quyết tâm chính trị của Việt Nam trong xây dựng PDP 8 và tin tưởng rằng Việt Nam sẽ đạt được các mục tiêu, giải pháp phù hợp với kỳ vọng của cộng đồng quốc tế.

Sản xuất và cung ứng điện còn “lệch pha” do thiếu Luật Năng lượng

Phát triển ngành năng lượng tại Việt Nam hiện nay đang tồn tại khoảng cách lớn giữa năng lượng “cần được” huy động và năng lượng “có thể” huy động. Chính vì việc Việt Nam còn thiếu 2 luật quan trọng là Luật Năng lượng và Luật Năng lượng tái tạo, dẫn đến sự phát triển mất cân xứng, lệch pha giữa các khâu sản xuất, truyền dẫn và tiêu thụ điện…
Phát triển năng lượng tái tạo nảy sinh nhiều vấn đề, cần điều chỉnh chính sách cho phù hợp.
Phát triển năng lượng tái tạo nảy sinh nhiều vấn đề, cần điều chỉnh chính sách cho phù hợp.

Nhận định được các chuyên gia của Tổ chức Hợp tác quốc tế Đức (GIZ) nêu lên tại buổi gặp gỡ giữa GIZ và các cơ quan báo chí Việt Nam, ngày 30/6/2022.  

Theo GIZ, Chương trình hỗ trợ năng lượng (ESP) với sự hợp tác giữa Bộ Công Thương Việt Nam và GIZ đã và đang góp phần thực hiện chiến lược giảm phát thải khí nhà kính và chiến lược phát triển xanh của Việt Nam.

NHIỆT ĐIỆN THAN SẼ KHÓ TIẾP CẬN NGUỒN VỐN

Chương trình ESP với nhiều dự án nâng cấp và chuyển dịch đảm bảo an ninh năng lượng và năng lượng sạch của Việt Nam. Cụ thể bao gồm các dự án: Năng lượng tái tạo và hiệu quả năng lượng (4E), 2015 – 2023; Lưới điện thông minh cho năng lượng tái tạo và hiệu quả năng lượng (SGREEE), 2017 – 2021; Bảo vệ khí hậu thông qua phát triển thị trường năng lượng sinh học bền vững ở Việt Nam (BEM), 2019-2023;  Điện mặt trời mái nhà trong ngành thương mại và công nghiệp (CIRTS), 2021 – 2025; Hệ thống sản xuất tích hợp nuôi trồng thủy sản và năng lượng mặt trời cho hiệu quả sử dụng nguồn tài nguyên (SHRIMPS), 2017 – 2023); Năng lượng sạch, giá cả hợp lý và an ninh năng lượng cho khu vực Đông Nam Á (CASE), 2020-2024; Chương trình Phát triển Dự án (PDP), 2011 – 2023; Hỗ trợ Mở rộng quy mô Điện gió tại Việt Nam (DKTI WIND), 2014 – 2018.

Ông Nguyễn Anh Dũng, cán bộ Cao cấp Dự án 4E, cho biết khi thiết kế lộ trình chuyển dịch năng lượng bền vững của Việt Nam, GIZ hướng đến hiện thực hóa chuyển dịch năng lượng theo hướng tổng hòa các chính sách gia tăng tỷ lệ nội địa hóa.

“Hiện nay, giá năng lượng tái tạo đã rẻ và có sự cạnh tranh hơn nhiều so với trước. Các quốc gia đang phát triển cần tìm ra những con đường đi riêng cho mình”, ông Nguyễn Anh Dũng nhấn mạnh.

Ông Dũng cho rằng, thuế carbon sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự cạnh tranh của các doanh nghiệp. Và cũng cho biết, Trung Quốc đã ngừng cấp vốn cho nhiệt điện than, mà nhiệt điện than Việt Nam lại dựa vào Trung Quốc khá nhiều. “Một yếu tố không thể thiếu là cam kết của Thủ tướng Phạm Minh Chính ở COP26 trở thành động lực và quyết tâm thúc đẩy Việt Nam nhanh chóng chuyển dịch năng lượng”, ông Dũng nói. 

“Đặc biệt là cam kết của các ông lớn bảo hiểm trên thế giới về tái bảo hiểm khi hơn 47% công ty bảo hiểm sẽ không cấp tái bảo hiểm cho nhiệt điện than. Khi không có bảo hiểm sẽ không có nguồn vốn, buộc các công ty phải thay đổi nguồn năng lượng”.

Ông Nguyễn Anh Dũng, cán bộ Cao cấp Dự án 4E. 

Bổ sung thêm về vấn đề này, Bà Vũ Chi Mai, Quản lý Dự án “Năng lượng sạch, Giá cả phù hợp và Bền vững cho các quốc gia Đông Nam Á” (CASE), chia sẻ năm 2020, những đầu tư tài chính từ khu vực tư nhân vào năng lượng tái tạo ở Việt Nam tăng lên mức đột phá.

“Từ trước tới nay, Việt Nam chủ yếu tập trung ổn định năng lượng than, yêu cầu đặt ra là cần đảm bảo nguyên liệu đầu vào như thế nào để có sự ổn định. Chúng ta quen với việc dùng năng lượng dự trữ nhưng tính chất của dự trữ là sẽ hết khi sử dụng cạn kiệt, nhưng khi dịch chuyển sang năng lượng tái tạo thì hình thành được vòng tuần hoàn”, bà Mai nêu rõ.

LƯỚI ĐIỆN THÔNG MINH ỨNG DỤNG INTENET VẠN VẬT (IoT)

Khẳng định điện mặt trời phát triển sôi động thời gian qua, nhưng bà Vũ Chi Mai chỉ ra rằng điện mặt trời cũng đang gây ra nhiều vấn đề, đặt ra yêu cầu điều chỉnh chính sách sao cho phù hợp.

“Mặc dù năng lượng mặt trời tạo ra năng lượng sạch, tái tạo và bền vững, nhưng quá trình sản xuất các thiết bị có thể gây hại cho môi trường và kèm theo phát thải các-bon và khí nhà kính, đốt nhiên liệu hóa thạch, chất thải nhựa và sử dụng các vật liệu độc hại”, bà Mai nói.

Bà Mai nêu lên những khó khăn, thách thức của việc phát triển kinh tế năng lượng ở Việt Nam. Đó là, hạ tầng lưới ở Việt Nam chưa phát triển nhanh, dẫn đến hạn chế khiến các tổ chức không thể phát triển tối đa kinh tế năng lượng tái tạo.

Các chuyên gia của GIZ trao đổi thông tin với báo chí.
Các chuyên gia của GIZ trao đổi thông tin với báo chí.

Là một trong những dự án của Chương trình ESP đã ghi dấu ấn trên con đường chuyển dịch năng lượng của Việt Nam, Lưới điện thông minh đang được triển khai xây dựng ở Việt Nam nhằm phát triển cơ sở hạ tầng năng lượng thông minh, hoàn chỉnh, sánh ngang với các quốc gia tiên tiến ở ASEAN.

Chia sẻ rõ hơn về dự án, ông Dương Mạnh Cường, cán bộ Cao cấp dự án Lưới điện thông minh cho năng lượng tái tạo và hiệu quả năng lượng (SGREEE), cho biết Lưới điện thông minh là hệ thống điện lưới có phương thức trao đổi hai chiều, cho phép trao đổi điện và thông tin theo cả hai hướng giữa các công ty điện lực và người tiêu dùng. Sáng kiến này cho phép tích hợp trên quy mô lớn các dạng năng lượng tái tạo trở nên hiệu quả, đáng tin cậy, an toàn và bền vững.

Nghị quyết 55 của Bộ Chính trị nêu rõ yêu cầu phát triển Lưới điện thông minh để đảm bảo độ tin cậy và an ninh của nguồn cung năng lượng quốc gia và giúp đạt được các mục tiêu trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm của Việt Nam giai đoạn 2021 – 2030, trong đó có mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính 15% vào năm 2030 và 20% vào năm 2045.

Theo ông Dương Mạnh Cường, những thành tựu tiêu biểu sau 5 năm thực hiện dự án SGREEE tập trung vào 3 lĩnh vực chính: Hoàn thiện khung Pháp lý, Nâng cao và Phát triển năng lực, Hợp tác công nghệ.

Dự án đã nghiên cứu mã code để phát năng lượng cho toàn mạng lưới điện nhanh hơn; đã thúc đẩy điều chỉnh phụ tải điện bằng cách thiết kế các cơ chế dựa trên giá và dựa trên ưu đãi phù hợp cho Việt Nam, đó là nghiên cứu biểu giá CPP – tăng giá theo giờ.

Ông Dương Mạnh Cường nhận định: “Việt Nam còn thiếu 2 luật quan trọng là Luật Năng lượng và Luật Năng lượng tái tạo. Dẫn đến các chính sách điều hành phát triển ngành điện còn có tình trạng “giật cục”, bất hợp lý giữa nhiệt điện than, điện mặt trời, điện gió. Hiện còn tồn tại khoảng cách lớn giữa năng lượng “cần được” huy động và năng lượng “có thể” huy động, dẫn đến lệch pha giữa các khâu sản xuất, truyền dẫn và tiêu thụ điện”.

“Từ sau 2022, lưới điện thông minh của Việt Nam dự kiến sẽ ứng dụng công nghệ Internet vạn vật (IoT) để mang lại hiệu quả năng lượng, giúp Việt Nam tiến tới các mục tiêu trên”.

Ông Dương Mạnh Cường, cán bộ Cao cấp dự án Lưới điện thông minh cho năng lượng tái tạo và hiệu quả năng lượng (SGREEE).

Các chuyên gia GIZ khuyến nghị Bộ Công Thương và Chính phủ Việt Nam cần rà soát và đề xuất cập nhật lộ trình phát triển lưới điện thông minh kết hợp chỉ số lưới điện thông minh. GIZ đề xuất bộ tiêu chí để Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) và Bộ Công Thương tham khảo để xây dựng một bộ chỉ số lưới điện thông minh và áp dụng cho các tổng công ty điện lực.

Bộ tiêu chí đưa ra 8 tiêu chí, bao gồm: năng lượng xanh, thị trường năng lượng, độ tin cậy nguồn cung, phân tích dữ liệu, giám sát và điều khiển, sự hài lòng của khách hàng, an ninh mạng và tích hợp nguồn năng lượng phân tán.